Tranh chấp về thừa kế là một vấn đề phổ biến trong lĩnh vực tranh
chấp dân sự. Đặc biệt, tranh chấp liên quan đến việc phân chia di sản
thừa kế luôn là một chủ đề nhạy cảm và phức tạp, bởi vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích và quyền lợi của các bên có liên quan.
Để giải quyết tranh chấp di sản thừa kế, các bên tranh chấp phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật liên quan đến việc phân chia tài
sản. Điều này đòi hỏi các bên phải tìm hiểu kỹ luật pháp và cẩn trọng
trong việc đưa ra các yêu cầu và đề xuất. Việc không tuân thủ các quy
định pháp luật có thể dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng, như bị từ
truốt thừa kế hoặc phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt.
Thường thì trong tranh chấp di sản thừa kế, các bên tranh chấp thường
có quan hệ huyết thống hoặc thân thuộc với nhau. Điều này tạo ra một
bối cảnh phức tạp, nơi các bên thường cảm thấy căng thẳng trong việc
giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, để đảm bảo tính pháp lý và công bằng
cho các bên có liên quan, việc giải quyết tranh chấp di sản thừa kế là
cần thiết và không thể tránh được.
Do đó, để đạt được giải quyết tranh chấp di sản thừa kế một cách công
bằng và hiệu quả, các bên tranh chấp cần hợp tác với các chuyên gia
pháp lý có chuyên môn. Bằng cách này, các bên có thể đạt được thỏa thuận
chấp nhận được cho cả hai bên và đảm bảo tính pháp lý của quyết định.
1. Ai có quyền khởi kiện tranh chấp về phân chia di sản thừa kế?
Để khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế, trước tiên cần phải
xác định rõ những ai có quyền hưởng di sản thừa kế. Theo quy định của
pháp luật Việt Nam, có hai hình thức thừa kế chính là thừa kế theo di
chúc và thừa kế theo pháp luật.
Người được chỉ định trong di chúc để nhận phần di sản được gọi là
người có quyền thừa kế theo di chúc. Trong khi đó, thừa kế theo pháp
luật là hình thức thừa kế mà pháp luật quy định và được áp dụng khi
người chết không có di chúc hoặc di chúc không rõ ràng. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 651 của Bộ luật Dân sự năm 2015, những
người có quyền thừa kế theo pháp luật được xếp theo thứ tự ưu tiên như
sau:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người
chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Theo như quy định trên thì những người nằm trong các hàng thừa kế nói
trên có quyền khởi kiện tranh chấp về phân chia di sản thừa kế. Cụ thể,
những người có quyền khởi kiện tranh chấp về phân chia di sản thừa kế
là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vấn đề khởi kiện về việc phân chia di sản thừa kế?
Theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, tranh
chấp về thừa kế tài sản là tranh chấp được giải quyết bởi Tòa án. Tuy
nhiên, theo Điều 35 và Điều 38 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015,
những tranh chấp về thừa kế sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp đương sự hoặc tài sản nằm ở nước
ngoài, thì tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh.
Điều quan trọng cần lưu ý là khi tranh chấp liên quan đến việc phân
chia di sản thừa kế là bất động sản, thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản
đó mới có thẩm quyền giải quyết. Nếu di sản thừa kế là động sản thì Tòa
án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi đơn vị cư trú, làm việc của
người yêu cầu giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, các bên cũng có thể thỏa
thuận bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi nguyên đơn cư trú, làm việc giải
quyết tranh chấp. Điều này giúp cho việc giải quyết tranh chấp trở nên
linh hoạt và thuận tiện hơn cho các bên liên quan.
3. Thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bao lâu?
Căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 tại Điều 623 thì:
“Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với
bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết
thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó”.
Theo quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015, thời hiệu để người thừa kế
yêu cầu chia di sản được quy định rõ ràng nhằm đảm bảo tính công bằng và
pháp lý. Trong đó, thời hiệu này được tính từ thời điểm mở thừa kế, là
thời điểm người có tài sản chết, được quy định tại Điều 611 BLDS năm
2015.
Cụ thể, đối với bất động sản, thời hiệu để yêu cầu chia di sản là 30
năm, trong khi đối với động sản, thời hiệu này là 10 năm. Trong vòng
thời hiệu này, người thừa kế có quyền yêu cầu chia di sản theo tỷ lệ
được quy định pháp luật. Tuy nhiên, nếu hết thời hiệu này mà không có
yêu cầu chia di sản, thì di sản đó sẽ thuộc về người thừa kế đang quản
lý di sản đó.
Quy định này giúp đảm bảo quyền lợi của người thừa kế trong việc yêu
cầu chia di sản, đồng thời đảm bảo tính công bằng và pháp lý trong quá
trình phân chia di sản. Việc quản lý di sản sau khi hết thời hiệu cũng
được quy định rõ ràng, giúp tránh những tranh chấp không cần thiết và
đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế khác.
4. Án phí khởi kiện chia di sản thừa kế là bao nhiêu?
Trong vụ án chia di sản thừa kế, chi phí phát sinh cho việc giải
quyết tranh chấp di sản được tính vào án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên,
khác với các vụ án thông thường, án phí trong vụ án chia di sản thừa kế
được xác định dựa trên giá trị phần tài sản mà từng bên đương sự được
chia trong khối di sản thừa kế. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 đã quy định
cụ thể điều này tại khoản 7 Điều 27.
“7. Đối với vụ án liên quan đến chia tài sản chung, di sản thừa
kế thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau:
a) Khi các bên đương sự không xác định được phần tài sản
của mình hoặc mỗi người xác định phần tài sản của mình trong khối tài
sản chung, phần di sản của mình
trong khối di sản thừa kế là khác nhau và có một trong các bên yêu cầu
Tòa án giải quyết chia tài sản chung, di sản thừa kế đó thì mỗi bên
đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị
phần tài sản mà họ được chia, được hưởng trong khối tài sản chung hoặc trong khối di sản thừa kế. Đối với phần Tòa án bác đơn yêu cầu thì người yêu cầu chia tài sản chung, di sản
thừa kế không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trường hợp Tòa án xác
định tài sản chung, di sản thừa kế mà đương sự yêu cầu chia không phải
là tài sản của họ thì đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có
giá ngạch”.
Cụ thể, mức án phí chia tài sản thừa kế được quy định cụ thể theo bảng sau:
a) Án phí dân sự sơ thẩm:
Vụ việc
|
Án Phí
|
Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch
|
300.000 đồng
|
Từ 6.000.000 đồng trở xuống
|
5% giá trị tài sản có tranh chấp
|
Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng
|
20.000. 000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng
|
Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng
|
36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng
|
Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng
|
72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng
|
Từ trên 4.000.000.000 đồng
|
112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng.
|
b) Án phí khởi kiện chia thừa kế phúc thẩm: là 300.000 VNĐ
Ngoài ra, khoản 2 Điều 7 nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định như sau:
“Điều 7. Mức tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án
2. Mức tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự không có giá ngạch bằng mức án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch. Mức tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự có giá ngạch bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch mà Tòa án dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp do đương sự yêu cầu giải quyết nhưng tối thiểu không thấp hơn mức án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự không có giá ngạch.
Mức tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm trong vụ án dân sự bằng mức án phí dân sự phúc thẩm.”
Khi một người khởi kiện chia tài sản thừa kế, việc đóng 50% tiền tạm
ứng án phí là bắt buộc và tương đương với phần giá trị tài sản mà người
khởi kiện yêu cầu được chia. Việc đóng tiền tạm ứng án phí này giúp đảm
bảo tính công bằng và tránh tình trạng một bên kiện lớn hơn bên kia
khiến cho quá trình giải quyết tranh chấp gặp trở ngại.
Khi có bản án, quyết định của Tòa án, người khởi kiện, người bị kiện,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phải đóng án phí tương ứng với
phần của họ được hưởng trong khối tài sản thừa kế. Điều này được quy
định rõ ràng tại khoản 7 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Với cách
tính án phí này, mỗi bên đều chịu trách nhiệm đóng số tiền phù hợp với
phần tài sản mà họ được chia trong khối tài sản thừa kế, giúp đảm bảo
tính công bằng và tránh gây ra bất kỳ tranh cãi nào liên quan đến việc
thanh toán án phí.
|