1. Thế nào là trẻ sơ sinh?
Hiện nay, chưa có một quy định nào của pháp luật định nghĩa về trẻ sơ sinh. Tuy nhiên theo cách hiểu thông thường, thuật ngữ “trẻ sơ sinh” nói tới đứa trẻ vừa mới được sinh ra trong bụng mẹ được vài giờ, vài ngày, vài tuần. Theo thuật ngữ của tiếng Latin "sơ sinh" có nghĩa là “không nói nên lời”, “không thể nói”. Thuật ngữ này dùng để chỉ các trẻ trong độ tuổi từ 1 tháng đến 12 tháng tuổi.
Được biết, giai đoạn trẻ sơ sinh được tính từ khi trẻ vừa mới chào đời, được cắt rốn cho tới khi trẻ tròn 30 ngày tuổi. Đây là giai đoạn các bé bắt đầu làm quen với sự thay đổi của môi trường bên ngoài bụng mẹ. Cụm từ này dùng để gọi cả trẻ sinh thiếu tháng và trẻ sinh đủ tháng.
2. Trẻ sơ sinh có quyền được hưởng di sản thừa kế không?
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta có thể đối chiếu theo những quy định sau đây của pháp luật:
Khoản 1 Điều 16 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
Đồng thời, Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có những nội dung sau:
- Quyền nhân thân (gồm cả quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản) như: Quyền có họ, tên; Quyền thay đổi họ; Quyền thay đổi tên;…
- Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.
- Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.
Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
Quyền thừa kế Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Mặt khác, theo Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015:
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Từ những quy định trên, có thể thấy trẻ sơ sinh vẫn có quyền hưởng thừa kế, miễn là đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Bởi lẽ, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Đối chiếu với quy định trên thì ngay khi trẻ sinh ra thì trẻ đã có năng lực pháp luật dân sự, năng lực pháp luật dân sự của trẻ chỉ bị hạn chế khi Bộ luật Dân sự hoặc luật khác có liên quan quy định khác và chấm dứt khi trẻ chết. Do đó, dù trẻ sơ sinh chưa được một tháng tuổi đi nữa thì vẫn có năng lực pháp luật dân sự và có quyền được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế và các thành viên trong gia đình phải tôn trọng quyền định đoạt tài sản của người để lại di sản theo quy định về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về thừa kế.
- Trong trường hợp người để lại di sản chết có di chúc hợp pháp thì việc phân chia di sản sẽ được định đoạt theo di chúc.
- Trong trường hợp không có di chúc để lại hoặc di chúc không hợp pháp, phần di sản sẽ được phân chia theo pháp luật.
Theo đó, Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 có đưa ra quy định về việc thừa kế theo pháp luật như sau:
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Do đó, trẻ sơ sinh nằm trong hàng thừa kế được hưởng di sản sẽ được phân chia phần di sản bằng những người thừa kế cùng hàng.
Tuy nhiên, vì trẻ sơ sinh thì chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nên phần di sản thừa kế trẻ sơ sinh được hưởng sẽ do người đại diện hay người giám hộ đương nhiên (hoặc được cử ra) quản lý cho đến khi trẻ thành niên (năng lực hành vi dân sự đầy đủ).
3. Giám hộ người chưa thành niên
Điều 47 Bộ luật Dân sự liệt kê những đối tượng được giám hộ trong đó có người chưa thành niên. Tuy nhiên, không phải người chưa thành niên nào cũng được giám hộ mà chỉ người được quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015:
- Không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ.
- Có cha, mẹ nhưng cha mẹ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự.
- Cha mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
- Cha mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Cha mẹ đều bị Toà án tuyên bố hạn chế quyền với con.
- Cha mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con, có yêu cầu người giám hộ.
Bởi theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015, cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên. Do đó, con chưa thành niên sẽ do cha mẹ làm người đại diện theo pháp luật và chỉ trong các trường hợp nêu trên thì mới cần người giám hộ.
Và người giám hộ trong các trường hợp này được nêu tại Điều 52 Bộ luật Dân sự theo thứ tự sau đây:
- Đầu tiên: Anh ruột (anh cả) hoặc chị ruột (chị cả).
- Thứ hai: Nếu những người ưu tiên ở trên (anh ruột/chị ruột cả) không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người anh/chị ruột tiếp theo là người giám hộ trừ trường hợp có thoả thuận người anh/chị ruột khác làm người giám hộ.
- Thứ ba: Nếu không có anh/chị ruột thì người giám hộ sẽ là: Ông bà nội; ông bà ngoại hoặc những người này sẽ thoả thuận cử ra một hoặc một số người trong số này làm người giám hộ.
- Thứ tư: Bác/chú/cậu/cô/dì ruột nếu không có những đối tượng nêu trên.
Khi đó, người giám hộ cần phải đáp ứng các điều kiện:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Có tư cách đạo đức tốt, có điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ;
- Không phải đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự/bị kết án mà chưa xoá án tích về tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản người khác;
- Không bị Toà tuyên bố hạn chế quyền với con chưa thành niên.
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH
Đc 1: 402A Nguyễn Văn Luông, Phường 12, Quận 6, TP.HCM
Đc 2: 64 Võ Thị Sáu, Phường Tân Định, Quận 1,TP.HCM
Chi nhánh tại Biên Hòa: 5/1 Nguyễn Du, Quang Vinh,Biên Hoà, Đồng Nai.
-Luật Sư Trần Minh Hùng-Trưởng văn phòng
Tel: 0972238006 (zalo-viber) 028.38779958
Email: vanphongluatsugiadinh@gmail.com
Web: http://www.luatsugiadinh.net.vn
*Để thuận tiện cho quý khách khi muốn gặp trao đổi trực tiếp với luật sư, quý khách vui lòng liên hệ trước khi đến văn phòng.
Trân trọng cảm ơn! |